DU LỊCH HÀ NỘI – CÁT BI – LỆ GIANG – ĐẠI LÝ – 6N5Đ
Thời gian
6N5ĐGiá từ
19,0trBảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một trong những nơi trưng bày và lưu giữ những giá trị về văn hóa của 54 dân tộc anh em trên khắp cả nước. Hãy cùng theo chân Huonganhtuorist tìm hiểu xem bảo tàng Dân tộc học Việt Năm có những gì thú vị nhé!
Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Thái Nguyên cách Thủ đô thủ đô hà nội khoảng 80km, Bảo Tàng Văn Hóa những dân tộc Việt Nam tọa lạc ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên, được xây dựng năm 1960 với tên gọi khởi đầu là Bảo Tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo Tàng Văn Hóa những dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 5 Bảo Tàng Quốc Gia Việt Nam.
Được xây dựng trên một khuôn viên rộng đến 40.000m² cạnh dòng sông Cầu thơ mộng, tại điểm giao nhau của những đường Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn và Phương pháp mạng tháng Tám, Bảo tàng Văn hóa những dân tộc Việt Nam là một công trình kiến trúc quy mô, tầm cỡ mang nhiều tính nghệ thuật, đã đạt phần thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt 1 năm 2006.
50 năm qua Bảo tàng đã tiến hành hàng trăm cuộc nghiên giúp sưu tầm, trên địa bàn toàn nước, góp phần nâng tổng số hiện vật trong kho cơ sở lên gần 30.000 tài liệu hiện vật có giá trị.
Hiện nay, hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam được xây dựng trên cơ sở những nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn hoá vùng, giới thiệu bản sắc văn hoá 54 tộc người gắn với phong cảnh môi sinh từng vùng cư trú.
Gian long trọng của Bảo tàng là nơi đón khách. Tại đây giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam. Ở tiền sảnh to của Bảo tàng, chúng ta được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, thay mặt cho ba miền Bắc – Trung – Nam.
Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam được xây dựng năm 1960. Thời kỳ đầu mang tên Bảo tàng Việt Bắc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên giúp khoa học và giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá, lịch sử đấu tranh cách thức mạng của nhân dân những dân tộc Việt Bắc.
Năm 1976, Khu tự trị Việt Bắc giải thể, Bảo tàng Việt Bắc chuyển giao về Bộ Văn hoá – Thông tin quản trị. Từ đây, Bảo tàng chuyển hướng nội dung hoạt động từ Bảo tàng tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành về Văn hoá dân tộc. Ngày 31/3/1990 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa đã phê duyệt đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 7 Bảo tàng quốc gia Việt Nam.
Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu to được tạc bằng gỗ mô phỏng những lễ hội tiêu biểu truyền thống những tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ.
Phòng số 1: Trưng bày và giới thiệu về văn hóa những tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sông tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và những nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.Việt Mường là hai dân tộc có sự tương đồng về văn hóa truyền thống,đồng thời có nhiều điểm khác biệt thú vị.
Phòng số 2: Trưng bày và giới thiệu những tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên những thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với những sản phẩm xinh và tinh tế. Đặc thù họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xòe và bài hát then độc đáo.
Phòng số 3: Trưng bày và giới thiệu văn hóa những tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn…
Phòng số 4: Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me ( Bru – Vân Kiều,Ba Na, Brâu, Chơ Ro, Co,Cơ Tu, Gié Triêng, Cơ Ho, H’rê, Kháng, Khơ Me, Xinh Mun, Mnông, Khơ Mú, Mảng,Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền -Tây Nguyên và Nam Bộ.
Đời sống thương mại chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối to, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá thế giới là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn – Khơ Me.
Phòng số 5: Trưng bày và giới thiệu văn hoá những tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Raglai,Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa,Sán Dìu, Ngái). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên những cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.